Tôi bắt đầu làm quen với con tôm và nghề nuôi tôm từ năm 1992, đến nay đã hơn 30 năm. Suốt cả thời gian dài đó, dù làm công tác giảng dạy ở đại học, tôi luôn tâm niệm là có quá nhiều thứ cần phải học, phải đọc, phải làm thực tế để hiểu thêm về đối tượng nuôi và cả cách người nuôi tôm suy nghĩ, ra quyết định. Mục tiêu đơn giản là để "biết" nuôi tôm và dùng kinh nghiệm, kiến thức của mình hỗ trợ điều gì đó cho những người nuôi tôm khác. Để có kinh nghiệm thực tế, tôi tham gia sản xuất tôm giống và nuôi tôm thương phẩm. Tôi làm tư vấn cho doanh nghiệp và tiếp xúc với nhiều người nuôi tôm. Kho tàng tri thức từ những con người này thực sự làm tôi ngưỡng mộ. Khi có sự kết hợp giữa kinh nghiệm thực tiễn với định hướng khoa học, phản biện khoa học ... hiệu quả sản xuất được cải thiện rõ rệt. Để có thêm kiến thức mới, tôi đọc. Tôi luôn ngỡ ngàng với những điều mình đọc được và có chút tiếc nuối vì mình đã không (được) đọc sớm hơn. Có những điều tôi ngỡ mới được khám phá gần đây nhưng không ngờ người ta đã công bố từ những năm 1940 - 1950 của thế kỷ trước. Đó là tôi mới chỉ đọc được thêm một ngôn ngữ ngoài tiếng mẹ đẻ: Anh ngữ. Có rất nhiều sách vở, bài báo được viết bằng tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Nhật ... mà tôi chỉ có thể đoán được chút ít thông tin khi xem bảng biểu, đồ thị, con số và ước gì mình có thêm thời gian, nghị lực để học ngoại ngữ.
Trong rất nhiều thứ học được từ hơn 30 năm làm nghề, tôi nhận thấy có 2 điều quan trọng liên quan đến tìm kiếm và sử dụng thông tin:
1. Nhiều người trong chúng ta phát triển nghề từ kinh nghiệm của bản thân hoặc học hỏi từ bạn bè, hàng xóm. Những kinh nghiệm này phát huy tốt cho đến một lúc nào đó điều kiện nuôi thay đổi (về thời tiết, môi trường nước, dịch bệnh, nguyên vật liệu sử dụng hoặc công nghệ mới) và trở nên lỗi thời, không hiệu quả nữa. Điều chỉnh phương thức canh tác, kỹ thuật nuôi ... đòi hỏi nhiều thời gian và quan trọng hơn là kiến thức nền về con tôm, môi trường và những tương tác qua lại giữa con tôm với môi trường và các sinh vật khác cùng sống trong hệ sinh thái ao nuôi.
2. Thông tin khoa học hữu ích cho nghề tôm có nhiều nhưng người nuôi tôm khó tiếp cận do rào cản thuật ngữ, ngôn ngữ và thiếu thói quen đọc sách, hay thậm chí là cả sự thiếu tin tưởng vào thông tin khoa học. Khách quan mà nói, giữa những người làm khoa học (và điều kiện thí nghiệm) với người nuôi tôm (và điều kiện sản xuất) vẫn đang còn tồn tại một khoảng cách lớn. Ngôn ngữ khoa học nhìn chung khó hiểu với người dân và đa phần các báo cáo khoa học đều thiếu một phần "bình luận" xem kết quả này ứng dụng vào thực tế sản xuất có được không, ứng dụng như thế nào, chi phí và hiệu quả ra sao ... để người nuôi hoặc cách doanh nghiệp NTTS có thể cân nhắc mà thử nghiệm.
Tôi mong muốn khởi sự dự án này đã lâu nhưng năm 2025 mới quyết tâm thực hiện. Đây là nơi tôi sẽ chia sẻ những thông tin tôi tiếp cận được và những ứng dụng tôi nghĩ đến hoặc đã thử làm. Tôi mong thông tin khoa học tốt sẽ đến được với đại chúng và nguyện dành một phần thời gian của mình để làm chiếc cầu nối giữa khoa học với sản xuất. Mong sao người nuôi tôm Việt Nam sẽ có thêm thông tin, tri thức để chủ động cải thiện hoạt động sản xuất và hiệu quả kinh tế, phát triển nghề nuôi tôm một cách bền vững trong nhiều năm sắp tới.
Mango Hill 15/01/2025
Principal Research Scientist, CSIRO Aquaculture, Australia
Email: Tung.Hoang@csiro.au; Phone: +61 436691225
Nhận xét